Phật giáo quốc doanh và chủ trương ‘càng mê tín càng tốt’

Nghe đọc bài

Ý kiến nói đảng giao nhiệm vụ chính trị cho Phật giáo quốc doanh, đó là cần phải thu hút đông đảo quần chúng để chứng tỏ tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam có dấu hiệu khởi sắc, thông qua đó tuyên truyền chính sách của nhà nước về việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ chế độ, góp phần xây dựng khối đoàn kết dân tộc có lợi cho chính quyền.

Ngày nay, đa số người đi chùa để cầu xin Phật ban cho tiền bạc, đậu một kỳ thi, khỏi bệnh tật hay thăng tiến được một chức vụ nào đó. Người ta còn cúng những số tiền rất lớn mong Phật ưu tiên cho ước mong của mình.

Năm 2021, Hòa thượng Thích Gia Quang, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, vẫn lên tiếng khẳng định: “Giáo hội hướng dẫn tín đồ, phật tử sinh hoạt theo đúng chính pháp.”

Trong khi đó, vào năm 2008, Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ, hiện là người lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, lại cho rằng: “Nói về gia tài Phật giáo Việt Nam, tôi nói đó là một cơ đồ đã mục có thể sập […] người ta coi ông Phật cũng như ông Địa. Nghĩa là thờ Phật để cầu buôn may bán đắt, cầu cho đừng bệnh tật, cho trúng số đề.”

Đạo Phật cho rằng việc cầu xin để đạt quyền lực hay tiền tài là một thực hành mê tín, đi ngược lại với giáo lý nhà Phật. Tuy nhiên, vì sao việc thực hành Phật giáo tại Việt Nam lại ngày càng có xu hướng mê tín?

Sư Thích Trúc Thái Minh, trụ trì chùa Ba Vàng, có lượng “fan” khổng lồ trên mạng và ngoài đời

Sau năm 1975, các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam gần như bị hạn chế tuyệt đối. Chính quyền đóng cửa các ngôi chùa, hoặc cho phép mở cửa vài ngày trong tháng dưới sự giám sát rất nghiêm ngặt.

Thậm chí, đến năm 1981, khi Giáo hội Phật giáo Việt Nam, nơi tập hợp những nhà sư chấp nhận sự kiểm soát của chính quyền về tôn giáo, được thành lập thì đạo Phật vẫn còn rất khó khăn.

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ đã kể rằng trong những năm 1980, chùa của ông có lúc không còn gạo để ăn: “Có đêm, ông thầy quản lý lên kêu, mình hết gạo rồi thầy ơi! Tôi làm sao kiếm được gạo đây? Tôi cũng chả biết […] Rồi sau đó thầy trụ trì tức thầy Đức Chơn cũng phải đi cúng […] Rồi có hôm mấy thầy lên thưa, thầy trụ trì tối nay không thấy về, chả ai biết ra sao. Sáng ra thấy về, hỏi thầy đi đâu vậy? Nói, thì vô “sở” ngồi vì hành nghề trái phép.”

Đến năm 2007, thiền sư Thích Nhất Hạnh sau khi về nước đã nhận địnhrằng một số nhà sư của Giáo hội Phật giáo Việt Nam được xem như những người đang làm ăn, “như đang có một cái nghề”, không còn là đại diện cho nền đạo đức ngày xưa nữa.

Và “những người làm ăn” ấy ngày nay đã được công chúng công nhận là những người ăn nên làm ra với những ngôi chùa không khác gì các công ty kinh doanh. Chuyện gì đã xảy ra trong thập niên 1990 làm thay đổi cuộc đời của các nhà sư?

Trong thập niên 1980, xã hội Việt Nam đã bị xô dạt mạnh nhất với hàng loạt các biến chuyển ở quy mô lớn. Nền kinh tế bao cấp thất bại đã vùi người dân xuống bùn lầy của nghèo đói. Sự cấm cản giao tiếp với thế giới tư bản đã làm đất nước đi thụt lùi. Hàng trăm ngàn người đã tìm cách vượt biên, rất nhiều người chết mất xác ngoài biển. Niềm tin của người dân vào tương lai bị thách thức hàng ngày.

Trong bối cảnh mong manh như vậy, người dân phó thác số phận của mình vào các đấng tâm linh siêu nhiên, nổi bật nhất là các đền thờ dân gian như Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Thiên Hậu, các vị thần linh trong thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ (Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn…).

Cúng dường tại chùa Ba Vàng

Năm 1982, một cán bộ Ban Dân vận Thành ủy TP.HCM, đã lên án hàng loạt hình thức tâm linh trên báo Giác Ngộ: “[…] Hoạt động của hội ‘Bà Chúa xứ Nương Nương’ sử dụng kiểu đồng bóng cải tiến. Hồn con vật nào nhập vào ai, người ấy phải cử động như con vật đó. Hội ‘Đền thánh Phủ Giày’ vẫn giữ cách sinh hoạt bốc bát nhang và chữa bịnh bằng tàn nhang, nước thải. Khi các cuộc tổ chức vượt biên xuất hiện thì việc bói toán đều có những gợi ý chỉ có vượt biên mới làm ăn phát tài […]”.

Đến khi Việt Nam chính thức trở lại nền kinh tế thị trường thì các hoạt động tâm linh còn sôi nổi hơn nữa. Người dân “làm ăn” trong tâm thế bất an khi luật pháp chưa phát triển, các thiết chế kinh tế tư bản chưa vững chắc, thì việc dựa dẫm vào thần linh là điều dễ hiểu. Từ Bắc vào Nam, những chuyến hành hương đến các đền thờ tín ngưỡng dân gian để “giao dịch” với các thần linh bùng nổ, không thể nào ngăn cản.

Năm 1990, Bộ Chính trị Đảng CSVN đã ra Nghị quyết 24 về công tác tôn giáo, xác định: “Tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài. Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới.”

Đến lúc này, chính quyền bắt đầu chấp nhận các hoạt động tâm linh mà họ từng lên án. Những hoạt động tâm linh này được cho là mang đến một khí thế mới cho đất nước, tạo ra sự đoàn kết dân tộc trước các mối lo sợ khi mở cửa với thế giới, thúc đẩy sự gắn bó đối với quê hương, thu hút người Việt ở nước ngoài trở về Việt Nam. Từ đây, tín ngưỡng dân gian từng được coi là mê tín dị đoan trong một thời gian dài bỗng trở thành “bản sắc dân tộc”. Các cơ sở tín ngưỡng bắt đầu được chính quyền trực tiếp quản lý, khai thác phục vụ nhiều mục đích cả về kinh tế, văn hóa và chính trị.

Có thể nói rằng những tín ngưỡng tâm linh dân gian được cho là mê tín, thiếu hiểu biết ấy đã đưa người dân đi qua một giai đoạn khó khăn của lịch sử. Tuy nhiên, trong thị trường tâm linh sôi động thời mở cửa, Phật giáo vẫn còn giữ được truyền thống tu học, hướng dẫn người dân thực hành giáo lý, chưa tổ chức các lễ hội Phật giáo đầy màu sắc như hiện nay.

Năm 2003, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục ra Nghị quyết 25 về công tác tôn giáo, trong đó có một số chủ trương đáng chú ý như chống các “tà đạo”, còn gọi là các tôn giáo mới, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đối ngoại bằng tôn giáo nhằm phản bác những chỉ trích của thế giới về tự do tôn giáo tại Việt Nam.

Vào lúc này, Việt Nam đang cần chứng tỏ với thế giới về tình hình tự do tôn giáo. Phật giáo có thể là một lựa chọn hợp lý cho các mục tiêu vừa nêu.
Phật giáo vốn là tôn giáo có bề dày lịch sử ở Việt Nam nên rất dễ thu hút quần chúng. Giáo hội Phật giáo Việt Nam còn là thành viên của Mặt trận Tổ quốc, không bị ảnh hưởng từ các yếu tố nước ngoài, như Công giáo hay Tin Lành, nên chính quyền sẽ rất dễ điều khiển.

Mặt khác, dù các lễ hội tín ngưỡng dân gian đang rất phát triển, nhưng các lễ hội này thường tổ chức manh mún, không có một cơ quan quản lý chung, không có chức sắc chuyên nghiệp, dễ sa đà vào tình trạng mê tín dị đoan nặng nề, dễ nảy sinh ra các tôn giáo mới tạo gánh nặng cho việc quản lý của chính quyền.

Do vậy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, một tổ chức được quản lý tập trung và các nhà sư lãnh đạo giáo hội do chính quyền lựa chọn, trở thành một giải pháp hoàn hảo. Nhiệm vụ của Phật giáo vì thế mang tính chính trị rõ rệt, đó là cần phải thu hút đông đảo quần chúng để chứng tỏ tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam có dấu hiệu khởi sắc, thông qua đó tuyên truyền chính sách của nhà nước về việc tuân thủ pháp luật, bảo vệ chế độ, góp phần xây dựng khối đoàn kết dân tộc có lợi cho chính quyền.

Văn Tâm