Vì sao Ukraine quyết chiến đến cùng, còn Nam Việt Nam thoái lui?

Binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào vào Tháng Ba, 1971
Nghe đọc bài

Ý kiến nói người miền Nam Việt Nam, lạ thay, lại hay mang tâm trạng “đứng núi này, trông núi nọ,” dẫn đến các cuộc cách mạng và đảo chánh lật đổ chính phủ liên tiếp trong nội bộ miền Nam chống Cộng, để rồi sau cùng hầu như lại “rước” Cộng Sản vào cai trị đất nước mình.

Đã bốn tháng trôi qua kể từ ngày 24 Tháng Hai khi quân đội và nhân dân Ukraine, dưới quyền của ông Volodymyr Zelensky, tổng thống, nhất tề đứng dậy cầm súng chiến đấu chống các lực lượng xâm lược Nga dưới quyền ông Vladimir Putin, tổng thống, từ mặt trận Kiev lúc ban đầu cho tới mặt trận Donbas hiện nay.

Cuộc quyết đấu giữa gã khổng lồ Nga, một cường quốc quân sự có võ khí nguyên tử, và anh chàng tí hon Ukraine, chỉ được trang bị bằng các vũ khí lỗi thời từ thế kỷ trước, tỏ ra rất ngang ngửa, ít ra cũng trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, bởi vì chẳng những Ukraine đã chận đứng được phần lớn những cuộc tấn công mãnh liệt của quân Nga vào các đô thị và tỉnh thành trên đất nước mình mà còn có thể giáng trả cho đội quân xâm lược những đòn chí tử, gây ra nhiều tổn thất đáng kể về nhân mạng và vũ khí cho Nga.

Cuộc kháng chiến thần thánh của Ukraine bây giờ khiến cho những người am hiểu thời cuộc không thể nào không đưa ra câu hỏi vì sao Ukraine quyết tâm chiến đấu đến cùng trong khi miền Nam Việt Nam lại thối lui trước quân địch hồi năm 1975 trong thế kỷ trước.

Nói một cách tổng quát, chính hoàn cảnh lịch sử khác nhau và dân tộc tính khác nhau giữa Ukraine và miền Nam Việt Nam đã tạo nên sự khác biệt gần như trái ngược hẳn nhau đó giữa cuộc chiến tại Ukraine và cuộc chiến tại Việt Nam.

Ukraine chỉ chính thức bước vào cuộc chiến tranh với Nga mới có bốn tháng nay, mặc dù hồi năm 2014 họ đã phải đương đầu với một cuộc chiến tranh chớp nhoáng với Nga khi cường quốc này đánh chiếm bán đảo Crimea của họ.

Cảnh đổ nát, hoang tàn ở Ukraine khiến người Việt nhớ lại tội ác của quân Cộng sản

Trước khi Liên Bang Nga khởi sự tiến quân vào xâm lược Ukraine, vào ngày 24 Tháng Hai, Ukraine đang là một quốc gia tự do, dân chủ khá ổn định tại Đông Âu dưới quyền của Tổng Thống Zelensky và đang phục hồi khỏi những mất mát lớn lao sau khi bị Nga cướp lấy bán đảo Crimea, hồi năm 2014, cũng như khỏi nạn tham nhũng lan tràn trong hai chính quyền của các tổng thống Viktor Yanukovych (2010-2014) và Petro Poroshenko (2014-2019) trước đó.

Sau khi Crimea bị sáp nhập một cách bất hợp pháp vào Liên Bang Nga mà quốc tế chẳng làm gì được con gấu Nga thì chính phủ và nhân dân Ukraine, một mặt thì lo chuẩn bị tinh thần và thao luyện quân đội, mặt khác thì khẩn thiết nộp đơn xin gia nhập Tổ Chức Minh Ước Bắc Đại Tây Dương, tức Khối NATO, để được che chở. Tiếc thay, vì các nước Âu Châu bị Nga hăm dọa dữ dằn quá cho nên chuyện Ukraine vào NATO đã bị gác lại mãi cho tới khi Nga đưa quân tiến đánh Ukraine từ hồi đầu năm đến nay.

Khác với Ukraine, nước Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam phải đương đầu với cuộc chiến tranh chống quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược gần hai thập niên từ năm 1960 cho đến năm 1975.

Trong khi cuộc chiến tranh Nga-Ukraine còn mới mẻ quá và quân đội Ukraine vẫn chưa đến nỗi thấm mệt, cuộc chiến tranh kéo dài suốt hai thập niên kể từ ngày lập quốc cho đến khi bị thất thủ vào tay các lực lượng Cộng Sản, không nhiều thì ít, cũng đã làm cho quân và dân miền Nam Việt Nam đâm ra mệt mỏi vì chiến tranh.

Đã thế, cuộc kháng chiến chống Nga của Ukraine được rất nhiều quốc gia trên thế giới ủng hộ cả về mặt vật chất lẫn tinh thần, trong đó Hoa Kỳ và Khối NATO là nỗ lực chính. Ngược lại, cuộc chiến tranh chống Cộng của quân và dân Việt Nam Cộng Hòa hồi thế kỷ trước không được cái may mắn đó.

Không phải vì miền Nam Việt Nam thiếu chính nghĩa, mà vì toàn thể thế giới lúc đó ít có ai hiểu rõ được cái tàn bạo và phi nhân bản của chủ nghĩa Cộng Sản, cộng với lòng ganh ghét kỳ lạ của chính các nước trong Thế Giới Tự Do trước sự giàu mạnh và ảnh hưởng lan rộng của Hoa Kỳ, người đỡ đầu chính cho Việt Nam Cộng Hòa.

Vì thế, ngay cả một số quốc gia tự do, dân chủ trên thế giới, nhất là nước Pháp dưới thời Tổng Thống Charles de Gaulle cũng như các tổng thống George Pompidou và Valéry Giscard d’Estaing kế vị ông, cũng ra sức ủng hộ Cộng Sản Bắc Việt. Vì sao? Ít ra cũng là để xóa bỏ chính quyền thân Mỹ mà lập nên một chính quyền thân Pháp tại Sài Gòn dưới chiêu bài trung lập hóa miền Nam Việt Nam để có thể chấm dứt một cuộc chiến tranh không biết bao giờ mới kết thúc với phe Cộng Sản.

Cuộc tổng tấn công của các lực lượng Cộng Sản vào thủ đô Sài Gòn hồi mùa Xuân năm 1975 diễn ra sau khi Hoa Kỳ quyết định bỏ rơi hoàn toàn đồng minh Nam Việt Nam và sau khi nhiều nước trên thế giới, nhân danh chính nghĩa hòa bình, nồng nhiệt cổ võ cho Cộng Sản Bắc Việt đánh chiếm miền Nam Việt Nam, vì họ vững tin rằng chế độ Cộng Sản Việt Nam thế nào cũng tốt đẹp hơn chế độ tự do, dân chủ thân Mỹ tại Sài Gòn.

Từ Tháng Giêng, 1975, cho đến ngày 30 Tháng Tư, 1975, quân Cộng Sản Bắc Việt đã ngang nhiên vi phạm các điều khỏan trong Hiệp Định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình tại Việt Nam để lần lượt tấn công Phước Long, Ban Mê Thuột cùng nhiều tỉnh lỵ và thành phố khác tại Vùng II Chiến Thuật và Vùng I Chiến Thuật của Việt Nam Cộng Hòa.

Khác hẳn với truyền thống địch xâm lấn tới đâu thì quân ta chống trả và đẩy lùi họ tới đó trong suốt hai thập niên chiến tranh, các đại đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có mặt tại bốn quân khu, chủ yếu là các sư đoàn Bộ Binh cùng với các lực lượng tổng trừ bị và trừ bị cấp quân đoàn, đều hầu như chưa kịp chống trả gì – ngoại trừ trận Long Khánh – thì đã được lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH từ trung ương bắt phải rút quân về lãnh thổ Vùng III Chiến Thuật để “lập phòng tuyến mới.”

Các tài liệu đã được giải mã sau này cho thấy chính quyền của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tại Sài Gòn, hết sức bối rối sau khi biết rõ Washington đã quyết định bỏ rơi miền Nam Việt Nam vào tay Cộng Sản bằng cách cắt hết viện trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam Cộng Hòa, đã thực hiện sách lược tái phối trí các đơn vị quân đội và co cụm lại để phòng thủ lãnh thổ một cách ít tốn kém nhất, chủ yếu là tại Vùng III và Vùng IV Chiến Thuật, vừa gấp rút mà cũng vừa thiếu tổ chức.

Sách lược này đã dẫn đến sự sụp đổ từng mảng lớn, mà cao điểm là việc Sài Gòn thất thủ vào tay Cộng Quân ngày 30 Tháng Tư, 1975, của một quân đội dũng mãnh và đông đến cả triệu chiến binh dưới cờ, một đội quân từng đánh thắng các đơn vị chủ lực của Cộng Sản từ trận Tết Mậu Thân (1968) qua các cuộc Hành Quân Toàn Thắng 42 và 43 tại Cambodia (1970) và Mùa Hè Đỏ Lửa (1972) trên khắp bốn vùng chiến thuật, khiến cả thế giới không khỏi ngạc nhiên.

Dân Ukraine hiểu rõ chủ nghĩa Cộng Sản là độc tài và phi nhân 

Rõ ràng là đã có sự tương phản rõ rệt dẫn tới kết quả khác biệt nhau trong các cuộc chiến tại Ukraine năm 2022 và tại miền Nam Việt Nam năm 1975. Chính hoàn cảnh và tình thế khác nhau giữa Ukraine và miền Nam Việt Nam đã dẫn đến cuộc diện chiến tranh khác nhau tại hai phương trời cách biệt đó.

Quân và dân Ukraine bị dồn vào thế phải chiến đấu tới cùng nếu không muốn đất nước họ bị Liên Bang Nga thôn tính vĩnh viễn trong khi quân và dân Việt Nam Cộng Hòa, trước cuộc tổng tấn công sau cùng của Cộng Sản Bắc Việt, vẫn không nghĩ rằng đất nước mình sẽ bị xóa sổ trên bản đồ thế giới. Bởi vì từ các chính trị gia cho tới dân chúng, ai ai cũng cứ mơ hồ về các giải pháp chính trị, trong đó có việc thành lập một chính phủ hòa hợp và hòa giải tại Sài Gòn để miền Nam Việt Nam tiếp tục tồn tại với quy chế trung lập do quốc tế định đặt.

Dân Ukraine hiểu rõ chủ nghĩa Cộng Sản là độc tài và phi nhân vì đã từng sống dưới ách Cộng Sản suốt tám thập niên nên không còn muốn bị nước Nga, với một nền dân chủ giả hiệu và một đường lối cai trị chẳng khác gì Cộng Sản dưới quyền nhà độc tài Putin. Trong khi đó, phần lớn dân chúng miền Nam Việt Nam hồi thế kỷ trước vẫn chưa hiểu rõ chủ nghĩa Cộng Sản là tồi tệ và vẫn còn tơ tưởng về một ngày mai “không đến nỗi nào” dưới chế độ Cộng Sản.

-Ukraine bây giờ có giặc ngoài, là Nga, nhưng không có thù trong, là phe phản chiến trong nước, như Việt Nam Cộng Hòa hồi các thập niên 1960 và 1970. Một số không ít các chính trị gia và dân chúng miền Nam Việt Nam cứ việc nghe theo lời dụ dỗ của Cộng Sản mà hùa nhau tìm cách lật đổ các chính quyền hợp hiến và hợp pháp tại miền Nam Việt Nam, hay ít ra thì cũng tuyên truyền bóp méo sự thật nhằm làm mất uy tín của chính quyền tại Sài Gòn trước con mắt của quốc tế, dẫn đến sự sa sút tinh thần chiến đấu cùng với xu hướng thỏa hiệp với Cộng Sản trong nước.

-Người dân Ukraine hiền hòa và ít tham vọng hơn người dân Việt Nam ở chỗ họ chỉ muốn có một chính quyền của người Ukraine, biết lo cho quyền lợi của dân tộc và không để cho Ukraine phải lệ thuộc Nga như trong quá khứ đau buồn lúc họ phải nằm dưới quyền cai trị của chủ nghĩa Đại Nga gần cả thế kỷ.

Người dân Việt Nam thời hậu bán thế kỷ 20, lạ thay, lại hay mang tâm trạng “đứng núi này, trông núi nọ,” dẫn đến các cuộc cách mạng và đảo chánh lật đổ chính phủ liên tiếp trong nội bộ miền Nam chống Cộng, để rồi sau cùng hầu như lại “rước” Cộng Sản vào cai trị đất nước mình, chỉ vì họ cứ tưởng bở là người Cộng Sản trong sạch hơn, không biết tham nhũng là gì, tuy chỉ phải cái tội độc tài và tàn ác mà thôi.

(Theo Người Việt)