Sau ông Trọng, Việt Nam sẽ đi về đâu ?

Các sự kiện trong năm qua đã làm nổi bật những xu hướng dài hạn chính trong chính sách đối nội và đối ngoại của Việt Nam. Nước này sẽ ít liên kết với Trung Quốc nhiều hơn. Trong thập kỷ tới, Viẹt Nam có thể sẽ có nhà lãnh đạo không bảo thủ đầu tiên kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc nhưng các nhà lãnh đạo vẫn tiếp tục coi trọng mô hình nhà nước theo chủ nghĩa xã hội.

Mặc dù có mật độ dân số và giao thông với Trung Quốc cao, nhưng tỷ lệ nhiễm COVID-19 của Việt Nam là một trong những tỷ lệ thấp nhất trên thế giới. Việc ngăn chặn vi rút giúp kinh tế Việt Nam tăng trưởng ước tính 2,9% vào năm 2020, cao hơn mức ước tính 2,3% của Trung Quốc trong bối cảnh suy thoái toàn cầu trong đó hầu hết các nền kinh tế khác bị ảnh hưởng.

Với thời gian lao động và đầu tư giảm, tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam tăng trưởng chủ yếu nhờ vào tăng trưởng năng suất các nhân tố tổng hợp, một phần phản ánh sự chuyển đổi số hóa chóng mặt của đất nước. Chính phủ Việt Nam từ lâu đã nhận thức rằng chuyển đổi số là chìa khóa để đạt được các mục tiêu hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Đại dịch đã biến khẩu hiệu này thành một điều cần thiết.

Trong năm 2020, 13.000 công ty khởi nghiệp mới đã tham gia vào 45.000 doanh nghiệp hiện có trong nền kinh tế số mới chớm nở của Việt Nam. Theo một phân tích trong số 90 nền kinh tế, Việt Nam – cùng với Azerbaijan, Indonesia, Ấn Độ và Iran – chỉ sau Trung Quốc về đà phát triển kỹ thuật số.

Tuy nhiên, trong khi tính minh bạch và năng lực là những yếu tố chính của Việt Nam trong tiếp cận đối với đại dịch COVID-19, các nhà lãnh đạo Việt Nam không muốn áp dụng cách tiếp cận này cho các lĩnh vực quản trị khác. Khi họ tìm cách duy trì nhà nước theo chủ nghĩa xã hội, họ sợ hãi sự minh bạch và từ chối nhân tài.

Khi tầng lớp cầm quyền đang lựa chọn các nhà lãnh đạo mới chuẩn bị cho Đại hội 13 của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thông tin về các nhà lãnh đạo mới đã được phân loại ‘tối mật’. Tại Đại hội, ĐCSVN đã từ chối đề bạt anh hùng chống dịch COVID-19 của Việt Nam là Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam làm Ủy viên Bộ Chính trị. Đại hội từ bỏ giới hạn tuổi 65 lần thứ ba và trao cho Tổng bí thư bảo thủ Nguyễn Phú Trọng (77 tuổi) nhiệm kỳ thứ ba chưa từng có, vi phạm hiến pháp của chính ĐCSVN.

Trong khi việc ông Trọng tái đắc cử cho thấy sự thành công của những người bảo thủ chế độ vào lúc này, nó đánh dấu sự khởi đầu của việc kết thúc kỷ nguyên cải cách do phe bảo thủ lãnh đạo ở Việt Nam. Kể từ khi chế độ Cộng sản ở Đông Âu sụp đổ năm 1989, chỉ ba năm sau khi ra mắt đổi mới , tất cả các tổng bí thư của ĐCSVN đều là những người bảo thủ chế độ. Lần này Trọng không đề bạt được người kế vị của mình.

Sự lựa chọn ưu ái của ông, cựu viện trưởng viện kiểm sát nhân dân Trần Quốc Vượng, bị bỏ xa so với những người khác mặc dù được ông Trọng ủng hộ mạnh mẽ. Không có những người bảo thủ tốt hơn ủng hộ, ông Trọng đã sử dụng lựa chọn hạt nhân – ông đứng ở vị trí cao nhất mặc dù điều đó buộc ĐCSVN phải phá vỡ các quy tắc của chính mình.

Ông Trọng tái đắc cử là một phần của một thỏa thuận lớn hơn. Các vị trí lãnh đạo cao nhất khác của đất nước – Chủ tịch nước, Thủ tướng và Chủ tịch Quốc hội – lần lượt được bổ nhiệm cho Nguyễn Xuân Phúc, Phạm Minh Chính và Vương Đình Huệ, những người theo chủ nghĩa thực dụng hơn. Bên dưới ‘tứ trụ’ này, chức vụ cao cấp thứ năm trong đảng-nhà nước, chức vụ trưởng ban bí thư trung ương ĐCSVN, được trao cho Võ Văn Thưởng, một người trung dung, không phải là người bảo thủ cũng không phải là người cải cách.

Vì vậy, trong khi ông Trọng có thể ở lại một nửa hoặc toàn nhiệm kỳ, người có khả năng kế nhiệm trong số các lãnh đạo cao nhất này sẽ là người đầu tiên không thuộc phe bảo thủ sẽ lãnh đạo ĐCSVN kể từ năm 1989.

Chủ nghĩa bảo thủ chế độ của Việt Nam thường gắn liền với chủ nghĩa chống phương Tây. Nhưng việc Trung Quốc triển khai giàn khoan dầu HYSY-981 vào năm 2014 trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Việt Nam – vượt qua ranh giới đỏ của Hà Nội – là một bước ngoặt trong chính sách đối ngoại của Việt Nam và chấm dứt chính sách chống phương Tây hiện nay. Kể từ năm 2014, Việt Nam đã dần rời xa Trung Quốc và xích lại gần Hoa Kỳ hơn.

Đại dịch COVID-19 đã đẩy nhanh xu hướng này đồng thời cũng làm gia tăng khoảng cách giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ. Trong khi Bắc Kinh lợi dụng thời điểm khó khăn lấn sân vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Washington đã cử một tàu sân bay thăm Việt Nam. Hà nội đã công nhậntheo cách nói của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh, ‘người bạn thân, đối tác đơn thuần’.

Vào tháng 4 năm 2020, Việt Nam đã tham gia các cuộc đàm phán với Bộ Tứ không chính thức do Hoa Kỳ dẫn đầu, bao gồm những người bạn thân thiết nhất của Washington ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, để thảo luận tái cấu trúc chuỗi cung ứng khu vực ra khỏi Trung Quốc và ngăn chặn sự phụ thuộc quá mức vào thị trường này. Trong thời kỳ đại dịch, các đặc phái viên cấp cao của Trung Quốc đã đến thăm tất cả các thành viên ASEAN trừ Việt Nam. Mục đích của những chuyến đi này là nhằm ngăn chặn một liên minh chống Trung Quốc và kéo họ vào vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Việt Nam có thể đã bị coi là vô ích hoặc bị trừng phạt vì liên quan đến bộ Tứ.

Việt Nam là một trong ba quốc gia châu Á loại trừ Huawei của Trung Quốc khỏi mạng 5G – hai nền kinh tế còn lại là Nhật Bản và Đài Loan. Việt Nam cũng đã tránh xa ‘Một vành đai, một con đường’ của Trung Quốc mặc dù rất ủng hộ sáng kiến này.

Việt Nam đang nổi lên như một thành trì chống lại Trung Quốc với nền kinh tế số hóa nhanh chóng và một ban lãnh đạo thực dụng bám chặt vào sự cai trị của ĐCSVN.

*Alexander L Vuving là Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương của Daniel K Inouye, Honolulu.

Tất cả các quan điểm được trình bày trong bài viết này hoàn toàn là của tác giả và không nhất thiết phản ánh ý kiến của DKI APCSS, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ hoặc chính phủ Hoa Kỳ.

Theo VNTB